Chương 2
Khi tổ mẫu ta bận rộn trò chuyện với Quốc công phu nhân, ta chỉ chăm chú nhìn đôi song sinh đẹp như ngọc chạm ấy.
Hai đứa trẻ tính tình thật dễ chịu, dù mãi không tháo được chiếc vòng chín khuyên, chúng vẫn không vội vàng hay cáu kỉnh. Đặc biệt là cậu bé đội mũ gấm, miệng luôn nở nụ cười “hì hì”. Còn cô bé tết tóc sừng dê, nhỏ tuổi nhưng đã có phong thái trầm lặng của một tiểu thư đoan trang.
Nhìn cô bé ấy, ta chợt nhớ đến Thu muội với làn da đen nhẻm ở nhà. Nhưng nếu so về đánh nhau, muội muội ta chắc chắn sẽ thắng.
Chuyến đi kinh thành lần này, nhà ta thu hoạch được không ít.
Chu di nương cho mười lượng bạc cùng năm sáu bộ quần áo cũ. Quốc công phu nhân tặng ba mươi lượng bạc, thêm mấy cái bao bánh ngọt, hạt khô, lá trà, lụa là, thuốc men, và thịt khô.
Thiếu phu nhân của Quốc công phủ – mẫu thân của đôi long phụng song sinh – nghe nói mẹ ta sắp đến ngày sinh, còn chu đáo tặng một bọc quần áo và đồ chơi cũ của trẻ con, đặc biệt sai người gói thêm hai viên “bảo mệnh đan” để mẹ dùng lúc sinh nở.
À, thiếu phu nhân còn tặng ta một chiếc hộp gỗ sơn đen tinh xảo, trên hộp còn khắc hoa văn rất đẹp.
Người đứng dưới gốc cây hải đường trong sân, tà áo lay động, giọng nhẹ nhàng nói: “Xuân nhi vài năm nữa sẽ đến tuổi cập kê, mấy món trang sức này xem như thêm chút may mắn sớm cho con nhé.”
Tổ mẫu lại định bắt ta quỳ lạy, nhưng thiếu phu nhân vội đỡ ta dậy, dịu dàng nói: “Không đáng gì đâu, xin đừng làm vậy.”
Lúc rời phủ, Chu di nương còn sai người thuê xe ngựa cho chúng ta, nhưng tổ mẫu ta nào nỡ tiêu pha. Xe ngựa vừa đến cổng thành, bà đã trả lại, rồi thuê một chiếc xe lừa cũ kỹ thay vào.
Như vậy, tiết kiệm được mấy chục văn tiền, đủ mua bốn năm đấu lương thực. Nếu không phải đồ mang từ Quốc công phủ về quá nhiều, ngay cả xe lừa bà cũng sẽ không thuê.
Về đến nhà đã là đêm khuya, cha mẹ ta nhìn nửa xe “gió thu” mang về, vừa mừng vừa lo.
Mừng vì mùa đông sẽ không phải chịu đói, lo vì không biết phải trả món ân tình lớn như thế nào.
Bốn mươi lượng bạc, đối với nhà ta, là một khoản tài sản khổng lồ.
Tổ mẫu muốn dùng số bạc này để làm ăn buôn bán nhỏ, nhưng cha ta lại muốn mua lương thực, phần còn lại lặng lẽ cất đi phòng khi cần thiết.
“Chúng ta chỉ là nông dân chân lấm tay bùn, buôn bán cái gì chứ?! Mẹ không thấy Vương Ngũ ở đầu làng phía đông sao? Năm ngoái mở tiệm lụa ở trấn trên, năm nay đã nghèo đến mức đi xin ăn rồi.”
Tổ mẫu tức giận dậm chân: “Vậy sao con không nhìn Lý Căn ở phía tây làng, người ta nhờ bán bánh hấp mà cưới được vợ. Còn Trần Đông và Triệu Tứ, ai chẳng nhờ làm ăn mà phát tài? Con chỉ nhìn mấy kẻ chẳng ra gì, sao không so với những người thành công chứ? Thật là giống y như cha con lúc còn sống!”
Cha ta bị mắng, không nói một lời, bèn cố chấp quay ra đồng làm việc. Mẹ ta là người mềm yếu, kẹt giữa chồng và mẹ chồng, chỉ biết khuyên nhủ bà: “Mẹ, mẹ đừng chấp nhặt với cha bọn trẻ nữa, mẹ cứ nghe chàng ấy đi.”
“Haizzz—”
Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, dù không cam lòng, cuối cùng tổ mẫu ta vẫn phải nghe theo ý của đứa con trai duy nhất.
Nhờ ân đức của Quốc công phủ, mùa đông năm ấy, cả nhà ta không những không bị đói, mà khi hàng xóm cạn lương, tổ mẫu còn lén lấy ra mấy đấu gạo, bảo họ nấu cháo cho trẻ nhỏ.
Cứ như vậy, cả làng Đào Thủy chật vật sống lay lắt qua mùa đông đó. May mắn thay, năm sau mưa thuận gió hòa, cuộc sống của dân làng dần khá lên.
Trong khoảng thời gian ấy, mẹ ta sinh hạ Đông Bảo, nhà họ Trần cuối cùng cũng có người nối dõi.
Vì mẹ đã lớn tuổi, lần sinh nở này rất khó khăn. Nếu không có “bảo mệnh đan” của thiếu phu nhân Quốc công phủ, có lẽ cả mẹ ta lẫn đệ đệ đều không giữ được mạng.
Vì vậy, khi vừa thu hoạch rau củ tươi mới, tổ mẫu lại đi một chuyến lên Quốc công phủ.
Phu nhân từng thuận miệng nói: “Ta rất thích ăn rau củ do nông dân tự trồng.” Tổ mẫu ta liền ghi nhớ trong lòng.
Tất nhiên, Quốc công phủ vẫn rộng lượng như trước. Lần trở về, bà không đi tay không.
Thời gian cứ thế trôi qua, chớp mắt ta đã mười ba tuổi.
Đông Bảo đã biết đi, Thu muội đánh nhau càng dữ dội, còn ta thì đã trưởng thành hơn, bắt đầu quán xuyến việc nhà như một người lớn.
Con cái nông dân lớn lên từng ngày, con cháu hoàng tộc cũng vậy.
Hoàng thượng hiện có sáu hoàng tử. Trừ Đại hoàng tử xuất thân thấp hèn, không màng tranh giành, và Lục hoàng tử còn quấn tã, không có khả năng tranh vị, bốn vị hoàng tử còn lại đều khát khao ngai vàng.
Trong số đó, Tam hoàng tử nổi tiếng là “hiền đức”, nghe nói ngài còn kết giao với nhiều đại thần có thực quyền. Những lời đồn này, ta đều nghe được từ Lưu huynh bán kẹo hồ lô ở làng.
Lưu huynh là người thích buôn chuyện, mỗi lần đến là cả làng lại vây quanh nghe kể tin tức mới lạ bên ngoài. Chỉ nhờ miệng lưỡi, huynh ấy không chỉ dựng được ba gian nhà mà còn cưới được cô vợ hiền lành.
Vào một ngày thu, Lưu huynh lại gánh gánh kẹo đến, lần này mang theo một tin sốt dẻo hơn: “Tam hoàng tử bị Hoàng đế giam lỏng, Quốc công phủ kết thân với ngài cũng bị tịch biên gia sản!”
Mua kẹo hồ lô cho Đông Bảo xong, ta vừa định rời đi thì nghe tin này, chân lập tức mềm nhũn, không thể bước nổi.
“Quốc công phủ nào? Việc xảy ra khi nào vậy?” Giọng ta run rẩy, một cảm giác lạnh lẽo chưa từng có trào lên trong lòng.
Thấy ta như vậy, Lưu huynh tưởng ta tò mò, càng đắc ý đáp: “Ở kinh thành chỉ có một Quốc công phủ, khoảng nửa tháng trước. Nghe nói cả nhà họ bị đày đến Tháp Sơn, ngay cả gia nhân cũng bị bán đi hết.”
Trời thu, lạnh lẽo. Tai ta ù đi, chỉ thấy môi Lưu huynh mấp máy, nhưng không nghe rõ bất cứ điều gì nữa.
Tháp Sơn, nơi lạnh giá khắc nghiệt nhất, là nơi mà Chu di nương, Quốc công phu nhân, thiếu phu nhân cùng hai đứa trẻ từng chơi vòng chín khuyên bằng ngọc trắng trên tấm thảm đỏ thẫm đã phải tới.
Làm sao có thể như vậy được?
Ta khóc lóc chạy về nhà, ngay trong đêm ấy, tổ mẫu vội vã lên kinh thành.
Bà không tin, bởi một Quốc công phu nhân và thiếu phu nhân tốt như thế, làm sao Hoàng đế lại nhẫn tâm ra lệnh tịch thu gia sản của họ.
Ta ôm Đông Bảo, ngồi ở làng Đào Thủy đợi suốt một ngày một đêm.
Cả ngày ấy, ta hồn vía lên mây, mẹ ta cứ thút thít khóc, ngay cả cha ta – người xem mảnh đất là sinh mạng – cũng lần đầu tiên không ra đồng, mà cứ đi qua đi lại trong sân, lúc thì thở dài, lúc thì cau mày trầm tư.
Cuối cùng, nửa đêm, một chiếc xe ngựa dừng trước cửa nhà chúng ta. Cả nhà vội vã chạy ra, thấy tổ mẫu từ trên xe bước xuống với vẻ mặt nặng nề.
“Đem một tấm cửa gỗ ra, đưa Quốc công phu nhân vào trong.” Bà hạ giọng nói với cha ta.
Cha mẹ ta nhanh chóng mang tấm cửa ra. Ta xách chiếc đèn lồng lên, kéo rèm xe và nhìn thấy Quốc công phu nhân cùng hai đứa trẻ giống hệt nhau đang tựa vào trong xe.
Quốc công phu nhân nhắm nghiền mắt. Dù trong bóng tối, cũng có thể thấy khuôn mặt bà xám xịt, u ám. Không kịp hỏi gì nhiều, chúng ta nhanh chóng cẩn thận đưa bà vào nhà.
Thu muội thì dẫn hai đứa trẻ đi. Khi mọi việc đã sắp xếp ổn thỏa, ta mới thì thầm hỏi tổ mẫu: “Không phải nói cả nhà đều bị lưu đày sao?”
Tổ mẫu tiễn người đánh xe đi, đóng cửa lại rồi buồn bã lắc đầu: “Không phải. Thái phi trong cung đã xin Hoàng thượng tha cho Quốc công phủ, nên trẻ con dưới 10 tuổi không nằm trong danh sách lưu đày. Quốc công phu nhân sức khỏe yếu cũng được đặc xá. Nhưng mà—”
Ta hoảng hốt: “Nhưng mà sao ạ?”
“Hôm bị tịch thu tài sản, Chu di nương vì quá đau lòng mà phát bệnh suyễn, không qua khỏi—”
Chưa dứt câu, nước mắt tổ mẫu lăn dài. Ta cũng sững sờ, đứng chet lặng tại chỗ.
Không còn nữa?
Một người phụ nữ nhân hậu, từng nắm tay ta, khen ngợi ta, thậm chí chuẩn bị bữa trưa thịnh soạn cho ta, bỗng dưng lại ra đi như thế?
Nếu không có bà, có lẽ mẹ ta và Đông Bảo đã không còn sống. Nhưng ân nghĩa chưa kịp báo đáp, ân nhân đã không còn.
Làm sao lại như vậy được?
Lần đầu tiên, ở tuổi 13, ta cảm nhận sự nghiệt ngã của số phận. Đêm ấy, ta trằn trọc không ngủ được, cuối cùng chỉ mơ hồ thấy ánh sáng nhợt nhạt của bình minh qua khung cửa sổ.
Madara Info
Madara stands as a beacon for those desiring to craft a captivating online comic and manga reading platform on WordPress
For custom work request, please send email to wpstylish(at)gmail(dot)com