Chương 6
Ta vừa khóc vừa cười, chẳng phải đây chính là cái mà người ta thường nói “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” sao? Gần bà Lý Đại Hoa, sẽ học được cách chửi người?
Quả nhiên, câu nói “nuôi đàn ông hoang” đã chọc giận góa phụ họ Trương, bà ấy và tổ mẫu ta lao vào đánh nhau dữ dội, tiện thể còn chửi bới bà Mã thô tục không ngừng.
Lý chính và ta gần như đến cùng lúc: “Đừng đánh nữa! Bà góa Trương, mau buông tay! Bà Lý, đừng giật tóc người ta nữa!”
Lý chính ở thôn Đào Thủy vẫn rất có uy nghiêm. Ông vừa quát lên, tổ mẫu ta và bà góa Trương liền bị mọi người kéo ra, miễn cưỡng buông tay.
Tóc của bà góa Trương rối tung như ổ gà, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, trông thảm vô cùng.
“Bà con nhà họ Trần kia, ăn gạo của thôn Đào Thủy chúng ta, uống nước của thôn Đào Thủy chúng ta, Lý chính, ông không thể không quản được!”
Lý chính thở dài, ánh mắt nhìn bà góa Trương đầy vẻ thương xót và tức giận.
“Chuyện này đừng nhắc lại nữa. Bà chỉ là bán đất, không cam tâm, nên trút giận lên người khác mà thôi. Cuối năm rồi, mau về nhà làm đậu phụ đi, đừng gây chuyện nữa. Mọi người cũng giải tán đi, nhanh giải tán!”
Mọi người cười cười nói nói rồi tản ra, ta khoác tay hai tổ mẫu thắng trận của mình, ngẩng cao đầu, từng bước từng bước đi về nhà.
Tổ mẫu ta không nhịn được khen bà Mã: “Lúc nãy bà chửi hay thật đấy!”
Bà Mã lại trầm ngâm khen Lý chính: “Không ngờ một Lý chính nhỏ ở thôn Đào Thủy lại còn biết lý lẽ hơn người trong kinh thành, biết không trút giận lung tung.”
Ta cố tình nghiêng đầu hỏi: “Bà Mã, người trong kinh thành kia là ai vậy?”
Tổ mẫu ta cười, vỗ mạnh lên lưng ta: “Đừng có nhắc mấy chuyện không đâu, con bé thối!”
Quét dọn nhà cửa, hấp bánh bao ngô, làm đậu phụ, cúng tổ tiên, thoắt cái đã đến cuối năm.
Cuối tháng Chạp, tổ mẫu ta kéo bà Mã ra một góc, ấp úng nói: “Bà Mã này, có chuyện này ta vẫn đang giấu bà. Đó là… th//i th//ể của Chu Di nương, năm đó ta không tìm thấy, nên ta đã dựng cho bà ấy một ngôi mộ giả bên cạnh phần mộ tổ tiên nhà họ Trần ở sau núi. Chuyện này… ta làm hơi thiếu suy nghĩ, dù sao bà ấy cũng là người nhà Quốc công phủ, nhà các bà là dòng dõi công hầu, lễ nghi nhiều, ta không biết làm vậy có phạm kỵ húy gì không. Nhưng năm đó tình cảnh như vậy, ta thực sự không đành lòng để bà ấy làm cô hồn dã q/u/ỷ. Bà xem chuyện này thế nào?”
Mũi bà Mã cay xè, mắt đỏ hoe, nói: “Ta thay mặt Quốc công phủ, thay mặt Chu Di nương chân thành cảm ơn bà.”
Đêm giao thừa, bên ngoài tuyết bay lả tả. Tuyết là điềm báo năm được mùa, để hợp cảnh, ta cố tình mở túi đồ ngọt mà vị nam nhân kia tặng.
Cái mũi thính nhất là của An Chi, chạy tới nhìn, liền vui mừng reo lên: “Là kẹo sữa bò!”
Ta cười, rải kẹo lên bàn nhỏ trên giường đất: “Đã ăn bao giờ chưa?”
“Rồi, cữu cữu đệ mỗi lần đến Quốc công phủ đều mang rất nhiều kẹo sữa bò,” An Chi dùng ngón tay nhỏ chỉ vào Chi An: “Đệ ấy thích ăn nhất, cữu cữu cũng thương đệ ấy nhất.”
Ta bất ngờ lắm, Chi An vốn lạnh lùng, lại thích ăn kẹo sữa ngọt? Thì ra ta quên mất, đệ ấy chỉ là một đứa trẻ sáu tuổi.
Tâm tư nặng nề đến mấy, cũng chỉ là một đứa trẻ.
Trong nhà, mấy đứa nhỏ nhìn thấy kẹo thì nước miếng chảy ròng ròng. Đã vậy thì ăn nhiều vào, để những viên kẹo không dễ gì có được trong đời này làm ngọt miệng chúng, cũng sưởi ấm trái tim chúng.
04
Tết năm nay, ta không thể nào nói trái lòng rằng nó trôi qua tốt đẹp. Một cái tết của gia đình tan nát, người thân ly tán, làm sao mà vui được?
Nhìn khuôn mặt cố duy trì sự bình thản và nụ cười của bà Mã, nghe hai đứa nhỏ thổ lộ nỗi nhớ nhung về những ngày tháng đã qua, lòng ta luôn có cảm giác buồn man mác.
Tết là gì? Chính là cảnh tượng như bây giờ đây.
Chỉ là, dẫu đêm đến có rơi bao nhiêu nước mắt, thì sáng ra, ngày tháng vẫn phải tiếp tục như thường.
Thoắt cái đã đến mồng sáu tháng Giêng, cả nhà chúng ta lại bắt đầu một năm bận rộn.
Tổ mẫu sửa lại quần áo, làm đế giày, khâu vá cho cả nhà chín người; cha ta tranh thủ lúc chưa vào vụ cày cấy để lên núi chặt gỗ, đục đá, và xúc đất; mẹ ta vừa trông nom Đông Bảo vừa lo đủ hai bữa cơm mỗi ngày; Thu muội dẫn An Chi chăm đàn gà con; Chi An bắt đầu chuẩn bị cho những ngày đến học viện sắp tới.
Còn ta thì lại tiếp tục gánh quang gánh ra trấn bán bánh mè.
Còn về bà Mã—
Từ khi sinh ra, bà đã là tiểu thư con nhà quyền quý, mọi việc đều có nha hoàn và bà vú lo liệu, chưa bao giờ phải động tay vào bất cứ việc gì, ngay cả việc khâu vá đơn giản nhất cũng không biết làm.
“Bà sống đến già rồi mà chẳng khác gì phế nhân!”
Bà thường ngồi thở dài trên tảng đá giữa sân.
Ta ngồi xổm bên bếp lò, vừa nướng bánh vừa cười trêu bà: “Bà Mã, bà có món ăn nào đơn giản mà ngon không? Sắp vào xuân rồi, con muốn làm thêm vài món mới để bán, cho khách đổi khẩu vị, tiện thể kiếm thêm ít bạc.”
“Có chứ!” Đôi mắt bà Mã lập tức sáng rực lên, “Bà không giỏi gì khác, chứ về ăn uống thì vẫn có tay nghề đấy!”
Ta vội gật đầu lia lịa, nịnh bợ: “Đúng đúng! Bà là chuyên gia ẩm thực của thôn Đào Thủy mà! Làm phiền bà nghĩ giúp vài món, mai con sẽ thử làm ngay.”
“Chuyện nhỏ, đợi đó!”
Chưa nói xong, bà đã hào hứng đi vào nhà viết công thức món ăn rồi.
Trong tháng Giêng, người ra ngoài không nhiều, nên việc buôn bán của ta không mấy khởi sắc, mỗi ngày cũng chỉ kiếm được hai ba mươi văn tiền.
Nhưng cha ta thì ngược lại, người làm việc hăng say, chưa đầy nửa tháng mà gỗ tròn, đá, và đất vàng đã chiếm hết nửa sân nhà.
Ta lén hỏi tổ mẫu: “Cha con định làm gì thế?”
Tổ mẫu bĩu môi, nhưng khoé miệng lại cong lên: “Cái con lừa lì ấy không biết nghe ai nói trẻ con trai gái qua bảy tuổi không được ngủ chung phòng, thế là muốn xây nhà đấy!”
“Xây nhà?”
Tổ mẫu chỉ vào khoảng đất trống bên cạnh nhà: “Ngay đó! Cha con muốn xây ba gian nhà cho bà cháu bà Mã ở.”
“Ồ, thế tiền có đủ không?”
“Đủ. Số bạc hai mươi lượng lần trước, trừ đi tiền mua thịt khô, da cáo, và mấy thứ linh tinh, vẫn còn lại mười một lượng. Cha con bảo chờ qua tháng Giêng sẽ nhờ vài người quen trong làng giúp xây nhà. Nếu không phải tháng Giêng kiêng động thổ trong nhà, chắc nó đã bắt đầu xây rồi.”
Ta cười: “Chà, cha con làm sao vậy,như thể đã biến thành một người hoàn toàn khác vậy?”
Tổ mẫu vừa bực vừa vui, đưa tay véo má ta: “Có đứa nào nói cha mình kiểu thế không? Cha con tuy đầu óc không lanh lợi, nhưng tấm lòng thì không xấu đâu.”
Ta: “…”
Bà ơi! Có người mẹ nào nói con trai mình kiểu thế không?
Ngày rằm tháng Giêng, Chi An đã lên bảy, ta đưa đệ ấy vào học ở Cô Trúc Thư Viện.
Thư Viện Cô Trúc là học viện duy nhất ở trấn Đào Nguyên, tuy trông có phần cũ kỹ nhưng danh tiếng lại không nhỏ trong vùng.
Từ thôn Đào Thủy đến trấn Đào Nguyên là mười sáu dặm. Trong làng có Triệu thúc mỗi sáng đánh xe bò chở người ra trấn, chiều lại đưa họ về, cả lượt đi và về chỉ mất một văn tiền.
Nếu là bác tài trẻ tuổi, ta còn không dám để Chi An ngồi xe, nhưng nếu là Triệu thúc, ta hoàn toàn yên tâm.
Vì Triệu thúc đánh xe bò cực kỳ chậm, vừa đánh xe vừa nhặt phân. Trên đường bất kể là phân bò, phân ngựa, hay phân lừa, thúc ấy đều không bỏ sót, nhặt hết cho vào sọt.
Với người nông thôn, phân là của báu, không gì tốt hơn làm phân bón ruộng. Chi An ngồi trên xe bò, còn ta gánh quang gánh đi bên cạnh.
Đôi khi xe bò ít người, Triệu thúc lại cười hiền, nháy mắt với ta: “Xuân nhi, lên xe ngồi đi.”
Người trong làng với nhau, ta đương nhiên không từ chối, nhưng mỗi lần như thế ta đều lấy từ giỏ ra hai chiếc bánh vừng tặng Triệu thúc.
Cuộc sống của thúc ấy không dễ dàng gì, các con trai sau khi cưới vợ đã phân nhà, còn các con dâu thì chẳng ai chịu nuôi cha mẹ chồng sức khỏe yếu. Không còn cách nào khác, Triệu thúc đành kéo lê đôi chân già nua, dựa vào việc đánh xe bò và nhặt phân để sống qua ngày.
Thật ra ta muốn cho Chi An ở lại trong thư viện, như vậy sẽ đỡ phải đi đi về về vất vả.
Nhưng Chi An, dù còn nhỏ, đã có suy nghĩ của riêng mình.
“Đại tỷ, đệ muốn mang những gì học được mỗi ngày về dạy lại cho An Chi và Thu tỷ.”
Thư Viện Cô Trúc không nhận nữ sinh, mà nhà ta lại không có tiền thuê thầy dạy kèm, suy nghĩ này của Chi An quả là một công đôi việc.
An Chi và Thu muội tuy là con gái, nhưng dù người đời có nói rằng “nữ nhi không tài mới là đức,” ta vẫn nghĩ những lời đó chẳng đáng tin chút nào.
Người biết chữ, có học vấn, dù là ai đi nữa, cũng sẽ sống tự tại hơn những kẻ mù chữ. Mà đời người chẳng phải chỉ để sống thoải mái hay sao?
Sau khi lo xong chuyện cho Chi An vào thư viện, ta cuối cùng cũng có thời gian làm theo công thức của bà Mã, lần lượt chế biến ra bánh đậu xanh, bánh nghệ đậu, và bánh hạt dẻ. Lúc này, cha ta bên kia cũng đã bắt đầu xây nhà.
Người nông thôn thật thà, giúp đỡ lẫn nhau đều không lấy tiền, chỉ cần một ngày ba bữa no bụng là đủ.
Họ làm việc nhanh nhẹn, cũng chẳng tiếc sức, nên chưa đầy nửa tháng, căn nhà mới đã hoàn thành.
Bà Mã đứng bên cạnh cảm thán: “Người nơi thôn dã đúng là thuần thiện, chẳng giống kinh thành, ai cũng có tám trăm mưu mẹo quỷ quyệt.”
Lần này cha ta thực sự dốc hết sức, không chỉ xây nhà mà còn mời cả thợ mộc, đóng một loạt đồ nội thất mới. Nào tủ, bàn, giá sách, bàn viết không kể, thậm chí còn có cả một bàn cờ.
“Đó… Ta cũng nghe thợ mộc nói thôi. Ông ấy từng bố trí thư phòng cho một công tử nhỏ trên trấn, nói là trong đó có một bàn cờ.”
Cha ta đối mặt với ánh mắt tò mò của mọi người, vừa đỏ mặt vừa gãi đầu lúng túng giải thích.
Madara Info
Madara stands as a beacon for those desiring to craft a captivating online comic and manga reading platform on WordPress
For custom work request, please send email to wpstylish(at)gmail(dot)com