Chương 5
15
“Mẫu thân” của ta “bệnh mất” sau đó nửa tháng.
Vì “thương tâm quá độ”, ta chưa kịp bước đến linh đường thì đã ngất xỉu, chỉ còn đệ đệ đứng ngẩn ngơ quỳ trước quan tài.
Phùng Lan Ân, đi chậm hơn ta vài bước, vừa bước vào linh đường đã khóc òa lên, nhưng trong tiếng khóc ấy, chẳng có đau buồn, chỉ có phẫn uất và không cam lòng.
Danh nghĩa thì nàng vẫn là đích nữ, nhưng mẹ nàng từ nay chỉ có thể làm thiếp trong phủ.
Quan tài của mẹ ta cũng được rước về khu mộ tổ Phùng gia, bài vị đưa vào từ đường. Ta lôi cả đệ muội cùng Tôn thị giờ đã thành thiếp đến quỳ trước bài vị của mẹ ta để tụng kinh.
Phụ thân nghe tin chạy đến, còn chưa kịp quát tháo ta, ta đã như sực tỉnh cầm lấy cây thương: “Cha, cha cũng nên xin lỗi mẹ con.”
Phụ thân nổi trận lôi đình, chụp lấy cây thương đặt ở một góc từ đường: “Con thật sự nghĩ mình đã đủ lông đủ cánh sao?! Con cho rằng phụ thân không làm gì nổi con ư?!”
Ta và cha đánh một trận.
Thương pháp họ Phùng của ta đều do ông dạy, nào là cản, đâm, chém, cuốn… Giờ đây, mọi chiêu thức ấy ta đều đem ra dùng. Năm chín tuổi, chỉ cần ta đỡ được một chiêu của cha cũng khiến ông hoan hô khen ngợi. Còn giờ, ta hất văng thương của ông, thứ ông nhìn ta lại là vẻ kinh ngạc, hoang mang, giận dữ…
Sau cùng, ta chợt thấy được chút an ủi.
Ông ngắm thanh thương bị ta đánh bay, lắc đầu: “Năm ta mười tám tuổi, sau khi thắng tổ phụ con, ta trở thành người đứng đầu Phùng gia. Giờ đây, ta cũng không quản nổi con nữa. Con muốn thế nào thì tùy.”
Phụ thân bỏ đi.
Ông dẫn đệ đệ trở lại tái bắc.
Tôn thị và Phùng Lan Ân thì bị ta bắt quỳ trong từ đường đọc kinh mỗi ngày.
Quỳ liên tục năm tháng, họ không chịu nổi, thừa lúc ta chợp mắt bèn âm thầm bỏ độc vào nước trà. Nhưng họ nào ngờ, cung tiễn giỏi thì thính giác cũng tinh tường, vừa nghe tiếng bọn họ rời bồ đoàn là ta đã hé mắt ra.
Cho nên rốt cuộc, ta đem chén trà ấy, bắt họ tự uống cạn.
Chính sự thương xót còn sót lại nơi họ đã cứu lấy mạng mình.
Thứ hòa trong trà không phải loại kịch độc một giọt chết ngay, mà là thứ thuốc khiến da thịt lở loét.
Tôn thị biết ta sẽ không bỏ qua, nên khi bị ta ép uống trà, bà ta liều mạng uống thêm, vì vậy làn da bà ta lở loét càng nặng. Còn Phùng Lan Ân thì đỡ hơn nhiều.
Ta chợt có chút ghen tị.
Ta nghĩ, nếu mẹ ta còn sống, chắc bà cũng sẽ hết lòng che chở ta như vậy.
Tôn thị không chịu từ bỏ, đến nước này vẫn không buông, viết thư cho cha ta khóc lóc, nói rằng ta muốn giết chết hai mẹ con họ, mong ông dẫn họ về tái bắc.
Nhưng phụ thân mãi không hồi thư.
Mãi đến kỳ về kinh báo cáo năm sau, ông mới trở lại cùng đệ đệ và một người đàn bà đang bế đứa con trai sơ sinh.
Phụ thân nói, đây là cô gái mà ông cứu được ở tái bắc. Dù xuất thân hàn vi, nhưng tính tình nhu mì, ông đã bẩm báo với tổ mẫu, chuẩn bị cưới nàng làm kế thất.
Tôn thị điên rồi, bà ta thừa lúc đêm xuống định bóp chết đứa bé trai, may nhờ gia nhân trung thành canh gác buổi đêm ngăn cản được.
Phụ thân nổi trận lôi đình, đưa bà ta ra ngoại thành cạo đầu làm ni cô. Còn Phùng Lan Ân mất chỗ dựa từ mẫu thân, cuối cùng cũng ngoan ngoãn hẳn, chỉ đành thủ phận bên đệ đệ chờ ngày xuất giá.
Những sóng gió đổi thay của nhà họ Phùng giờ không còn liên quan đến ta nữa.
Kỳ tang ba năm đã sắp hết, hôn sự giữa ta và Thôi Du cũng chính thức được bàn định.
16
Kiếp trước, ta chưa sống đến thời khắc này.
Vì thế ta không biết, mùa đông năm nay, Tấn Vương nổi binh tạo phản.
Bệ hạ nửa là giận lây, nửa là cảnh cáo, hạ chỉ buộc con trai duy nhất của tỷ tỷ ruột Tấn Vương phải đến Ung Thành khuyên hàng.
Và đứa con trai duy nhất của vị Quận chúa ấy, chính là Thôi Du, người sắp thành hôn với ta.
Khi Thôi Du đến tìm ta, ta đã thu dọn sẵn hành lý.
Chàng khẽ vuốt mớ tóc lòa xòa trước trán ta, giọng vẫn dịu dàng như thường nhưng mang theo vẻ kiên quyết không cho ta cự tuyệt: “Mãn Mãn, đợi ta ở nhà.”
“Bá Cẩn.” Tháng trước Thôi Du vừa làm lễ đội mũ, người nhà đặt tên tự cho chàng là Bá Cẩn. “Ta muốn đi cùng chàng.”
Chàng nhìn ta đắm đuối: “Chuyến đi lần này, ta không chắc vẹn toàn. Nàng đi cùng chỉ khiến ta phải e dè thêm. Hơn nữa, ta không thể trơ mắt để nàng bước vào hiểm cảnh. Mãn Mãn, điều đó có khác gì ép ta tự vẫn đâu?”
Một mình Thôi Du xuống phía nam, khuyên cữu cữu của mình buông binh, bởi bệ hạ bây giờ là một minh quân khoan hòa, cho dù không có thánh chỉ, chàng cũng mong Tấn Vương chớ vì tư tâm mà kéo muôn dân vào vòng binh lửa.
Nhưng hiển nhiên, Thôi Du đã thất bại.
Nếu Tấn Vương thật sự biết nể chút tình thân ấy, đã chẳng bỏ tỷ tỷ ruột và cháu ngoại ở kinh thành, vùng lên tạo phản.
Ngay từ đầu, đây vốn là cuộc phản loạn tất bại.
Ta chỉ còn biết đánh cược rằng “giao tranh không giết sứ giả”, ít nhất Tấn Vương sẽ tha cho đứa cháu ngoại an toàn trở về.
Nhưng ta đặt cược sai.
Thôi Du vào doanh trại của Tấn Vương rồi, chẳng thể thoát ra. Trở về chỉ là một chiếc mũ tóc đầy vết nứt. Tấn Vương nhân danh “đích trưởng tử của Thanh Hà Thôi thị” mà mời các môn sinh của nhánh Thôi thị Nam địa đến tụ hội. Nhưng tại yến tiệc, Thôi Du lại đập nát ngọc bội Thôi thị đeo bên hông, tuyên rõ chí nguyện “thà làm ngọc vỡ”.
Triều đình chia làm hai phái, cãi nhau đến nỗi trời long đất lở.
Một phe đứng đầu là Thôi gia, dâng sớ xin bệ hạ cứu Thôi Du; phe kia do nhà họ Vương chủ trương dứt khoát tấn công Tấn Vương, không thể vì một mình Thôi Du mà lỡ dở thời cơ.
Bệ hạ chống tay lên trán, hồi lâu chưa quyết.
Đúng lúc này, dưới sự dẫn dắt của An Lạc Công chúa, ta bước vào Kim Loan điện.
Gần như ngay khi chúng ta xuất hiện, những lời quở trách dồn dập vang lên. Thậm chí có một lão thần hủ lậu vì quá tức giận, cầm hốt bài (thẻ ngà dâng sớ) ném về phía ta.
“Quá quắt! Quá quắt! Chốn triều đường, há để nữ nhân các ngươi giẫm bước?!”
Ta không hề tránh né, mặc cho hốt bài nện trúng mình, rồi quỳ xuống nâng cây Kim Cung lên.
“Phùng thị Lan Bích, từ nhỏ theo cha học thương, năm Thịnh An thứ ba giết năm tên lưu khấu, năm Thịnh An thứ tư đánh lui hai mươi tên giặc. Năm Thịnh An thứ năm, được bệ hạ ban Kim Cung trong cuộc ‘xuân sưu’. Thần nữ xin bệ hạ cho mượn một trăm tinh binh, trong lúc hai quân giao chiến sẽ bí mật tập kích trung quân của địch, cứu vị hôn phu của thần nữ, Thôi Du!”
Cả triều đường ồn ào xôn xao.
Không chỉ nhà họ Vương sôi trào phản đối, mà ngay cả phụ thân của Thôi Du cũng nhìn ta với vẻ không đồng tình.
Chỉ riêng An Lạc Công chúa, cùng một võ tướng đứng cuối hàng ngũ nhà họ Thôi là lên tiếng ủng hộ.
Vị võ tướng này trước kia ở cuộc ‘xuân sưu’ từng tận mắt chứng kiến ta săn chim ưng, lúc đó còn tấm tắc khen ta xuất thần nhập hóa, trêu Thôi Du rằng, đợi ta gả vào Thôi gia, nhất định phải tìm ta học hỏi thêm!
Phụ thân Thôi Du thoáng dao động, cuối cùng khát vọng cứu con trai đã thắng, ông cũng bước ra dâng sớ cho ta.
Được nhà họ Thôi lên tiếng, bệ hạ hơi ngồi thẳng người dậy. Người còn nhớ ta là nữ nhân đầu tiên giành đầu bảng cuộc săn dưới triều ngài.
Thế nhưng nhà họ Vương vẫn nhất quyết phản đối, cho rằng giao một trăm tinh binh cho một nữ nhân nắm quyền, chẳng khác gì “ném châu xuống vực”.
Đúng vào lúc ấy, có người bước ra khỏi hàng ngũ Vương thị: “Phùng nương tử, ba năm rồi không thấy cô nương giương cung, liệu tay nghề có giảm sút không?”
Ta quay đầu nhìn, hóa ra là Vương thiếu gia.
Ta không hiểu dụng ý của hắn, nhưng vẫn đáp: “Ta luôn siêng năng luyện tập, chưa một ngày chểnh mảng.”
“Tốt!” Hắn giơ hốt bài: “Bệ hạ! Phùng nương tử thiện xạ tuyệt luân, nay tình nguyện xông pha cứu vị hôn phu, vốn là câu chuyện hay. Sao không để nàng lập quân lệnh trạng, dẫn theo một trăm tinh binh bí mật tập kích doanh trại phản tặc cứu Thôi Du, nếu thất bại, đưa đầu về nộp?”
Nhờ lời tiến cử ấy của Vương thiếu gia, bệ hạ cuối cùng cũng ưng thuận.
17
Hai đạo quân giao chiến tại sông Hoài.
Đại quân đối mặt chính diện, còn ta chia trăm tinh binh làm hai toán: tám mươi người theo ta mai phục ở sườn phải doanh trại địch, hai mươi người dắt bò, ẩn nấp nơi sườn núi trái.
Đợi quân Tấn đổi ca phòng thủ, cánh trái liền thả những con bò đã châm lửa vào đuôi, đồng thời đánh trống dồn dập, giả thế vạn mã xung phong, kéo hết binh lính quân Tấn đang canh giữ về phía ấy.
Ta dẫn số tinh binh còn lại xông thẳng vào doanh trại quân địch.
Mạn phải lúc này phòng bị lơi lỏng nhưng không phải trống không, ta vừa vung trường thương quét bay những kẻ cản đường, vừa dùng mũi thương rạch toạc từng trướng bồng.
Trướng này trống không, trướng kia cũng chẳng có Thôi Du.
Ta càng lúc càng gấp, bèn chĩa thương vào cổ họng một binh sĩ của quân Tấn: “Công tử nhà họ Thôi ở đâu?”
Gã chỉ cho ta một hướng, ta không tin, liền hạ luôn gã, rồi tiếp tục bắt một tên khác.
Cuối cùng, khi vài người đều cho ta cùng một câu trả lời, ta mới chạy thẳng đến hướng ấy.
Gần như ở nơi trọng yếu nhất của doanh trại địch, ta xé rách tấm rèm, đập vào mắt mình là một đôi con ngươi tối sầm, mệt mỏi.
Chàng trai gầy gò, xương xẩu, da dẻ trắng bệch đến bệnh hoạn, đang đổ gục trên mặt đất.
“Bá Cẩn!”
Ta xông tới đỡ chàng dậy, lúc ấy mới phát hiện gân tay gân chân của chàng đều đã bị cắt.
Ánh nhìn Thôi Du pha lẫn mơ hồ, dường như chẳng còn sức.
Ta cắn môi, gạt nước mắt sắp tuôn, khoác tấm giáp mềm mang theo trên lưng ngựa cho chàng, lấy một lá cờ trói thành dây, buộc chặt chàng lên lưng ta, lớn tiếng hiệu lệnh cho tinh binh hợp quân, lại xông ra một con đường máu.
Thôi Du dựa trên lưng ta, nhẹ như mây. Trong lòng ta dâng lên một nỗi sợ hãi chưa từng có, không ngừng gọi tên chàng: “Thôi Du! Thôi Du!”
Bên tai, hơi thở chàng yếu ớt, nhưng vẫn hết lần này đến lần khác đáp lại: “Ta vẫn ở đây. Ta sẽ sống. Đừng lo, Mãn Mãn, đừng khóc.”
18
Không biết ta đã ra sức thúc ngựa lao đi bao lâu.
Giữa màn đêm đen kịt, cuối cùng thấp thoáng hiện ra hình bóng của tòa thành.
Ta gần như ngã nhào khỏi lưng ngựa, kéo theo Thôi Du trên lưng cũng rơi xuống, chỉ nghe chàng bật lên một tiếng rên khẽ đến khó nghe ra.
Lúc ấy ta mới phát hiện, trên lưng chàng cắm hai mũi tên. Nhưng có lẽ sợ ta lo, từ đầu đến cuối chàng không hề kêu đau, chỉ những lúc quá đỗi thống khổ mới vùi mặt thật sâu vào hõm vai ta, như thể làm vậy có thể giúp chàng vững lòng trụ lại.
Cũng may ta đã khoác giáp mềm cho chàng, vết thương từ mũi tên không chí mạng. Điều khiến ngự y đau đầu lại là gân tay gân chân chàng đã bị cắt đứt.
Quân y chỉ biết cứu mạng trong cảnh chinh chiến, thương thế cần kỹ thuật tinh vi như này, ông không dám chắc.
Bàn bạc xong, quyết định để ta đưa Thôi Du về kinh, nhờ ngự y trong cung chữa trị.
Hòng giảm bớt xóc nảy trên đường, ta chọn đi đường thủy.
Mỗi ngày, Thôi Du đều chìm trong giấc ngủ mê man ở khoang thuyền, lúc tỉnh lại thì cũng chỉ lặng lẽ nhìn ra cửa sổ.
Thuyền đã đi hơn một tháng, rốt cuộc phong cảnh kinh thành cũng hiện ra trước mắt. Như thường lệ, ta tháo băng ở cổ tay Thôi Du định thay thuốc cho chàng, ai ngờ chàng lại rụt tay tránh khỏi tầm với của ta.
“Phùng nương tử,” giọng chàng đã mất vẻ trong trẻo ngày xưa, mang theo sự nghẹn ngào khô khan, “đợi chúng ta về đến kinh, hãy từ hôn đi.”
Ta ngẩn người, ngừng động tác, ngẩng đầu nhìn chàng.
Chàng quay đi, tránh né ánh mắt ta.
Mái tóc đen dài của chàng buông xuống theo cử động ấy, trắng như men sứ, gương mặt chàng càng nổi bật trên nền tóc đen, vừa đẹp đẽ vừa mong manh.
Chàng chậm rãi nói: “Giờ ta chẳng khác nào phế nhân, thực không xứng với nương tử…”
Ta ngắt lời chàng.
Mà ta ngắt lời như thế này — ta nâng mặt chàng, cúi xuống hôn, chặn lại cái miệng đang lải nhải mấy điều ta không muốn nghe.
Đôi mắt trong như lưu ly của Thôi Du bỗng chốc mở lớn, trong đó phản chiếu gương mặt ta, và vệt nắng chiều chiếu xiên qua khung cửa sổ.
“Thôi Du, ta không còn trinh trắng nữa rồi.”
Ta cố ý nói: “Chàng thật lòng không muốn cưới ta sao?”
Chàng nhìn ta, ánh mắt đầy ăm ắp, không rõ là do nước sông cuộn trào ngoài cửa sổ, hay do lệ nóng hoen mi.
“Ta muốn.” Giọng chàng run run: “Ta muốn, được cưới nàng, là nguyện vọng ta đã khao khát suốt hai kiếp rồi.”
Madara Info
Madara stands as a beacon for those desiring to craft a captivating online comic and manga reading platform on WordPress
For custom work request, please send email to wpstylish(at)gmail(dot)com